Với người Mường ở Thanh Sơn, họ đã biết cách chung sống cùng thiên nhiên, những món ăn đơn giản, dân dã nhưng luôn hài hòa và gắn liền với thiên nhiên cũng như bản tính hiền lành và đôn hậu của con người xứ Mường. Cho đến nay, những giá trị văn hóa đó vẫn được đồng bào bảo tồn và phát huy. Một trong số các món ăn điển hình phải kể đến là cơm lam.
Trước đây, người Mường trồng lúa nếp là chính. Theo các cụ cao niên ở bản Mường kể lại, người dân Mường xa xưa thường phải đi rừng, đi nương từ sáng sớm để kiếm thức ăn, thậm chí phải ngủ lại trong rừng. Do đó đồng bào đã sáng tạo ra việc dùng ống tre, ống nứa rồi cho gạo vào trong, đem nướng trên lửa và nấu chín thành cơm gọi là cơm lam. Về sau, việc chế biến món ăn này trở thành thói quen và được người Mường ưa thích. Món cơm lam từ bao đời cũng đã khẳng định được vị trí của mình trong thước đo giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào.
Cứ độ tháng 2, tháng 3 âm lịch, cây cối đương mùa đơm hoa, kết quả cũng là lúc những tổ kiến trên cây bắt đầu chắc trứng; đó cũng là lúc đồng bào Mường vào rừng tìm trứng kiến đem về làm bánh. Bánh trứng kiến là món ăn dân dã được chế biến tương đối cầu kỳ với vị thơm ngon riêng, trở thành một trong những nét văn hóa ẩm thực độc đáo của đồng bào dân tộc Mường vùng Đất Tổ.
Tùy vào kích thước của từng tổ mà số lượng trứng kiến nhiều hay ít, có tổ lấy được một bát, nhưng có tổ lớn lấy được ba, bốn bát. Trứng kiến lớn bằng hạt gạo, có màu trắng sữa, được mang về để chế biến thành nhân bánh. Một chiếc bánh ngon phải có nhân là trứng kiến nguyên chất, chỉ cần phi hành mỡ và muối không trộn thêm các nguyên liệu khác. Bột bánh làm từ gạo nếp ngon, xay nhuyễn, nhào dẻo, dát mỏng, nhồi nhân, rồi nặn thành hình vuông, bọc vào 2 lớp lá ngõa, đem hấp chín.
Bắp chuối lam sườn là món ăn truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc Mường. Hoa chuối rừng có trên khắp các các dãy núi, cánh rừng ở Yên Lập. Khi đi rừng người Mường thường hái bắp chuối mang về để chế biến thành nhiều món ăn khác nhau. Để làm món bắp chuối lam sườn, bắp chuối sẽ được thái mỏng, ngâm với dấm, sau đó vớt ra để ráo nước và với các trộn gia vị: muối, tiêu, lá thơm và thịt sườn băm (trước kia là thịt thú rừng băm nhỏ) cho vào ống nứa và lam đều tay (như lam cơm) trên lửa nhỏ hoặc than hồng. Khi lam chín món ăn có mùi thơm đặc trưng của hoa chuối rừng vị ngọt của thịt sườn, có thể ăn cùng cơm nóng hay làm dùng đồ nhắm rượu đều rất tuyệt.
Văn hóa ẩm thực của người Mường hình thành từ những món đơn giản dân dã, in đậm hương vị núi rừng, sông suối như thịt, cá, măng, rau rừng… Trong số đó, sẽ là thiếu sót khi không nhắc tới gà nấu măng chua. Trong tiết trời lạnh của mùa đông rất thích hợp để thưởng thức món măng chua nấu gà với mùi vị chua dịu nhẹ và thịt gà mềm mượt. Món măng chua nấu gà từ lâu đã nổi tiếng. Với đồng bào Mường để thưởng thức món măng chua nấu thịt gà ngon thì không thể thiếu các loại rau ăn kèm như lá đu đủ, cải nương … ăn kèm thịt gà với các loại rau này sẽ tạo nên hương vị đặc sắc vị đắng lá đu đủ kết hợp với cay của rau cải nương cùng hương vị thơm ngon của măng chua nấu thịt gà sẽ tốt cho sức khỏe.
Người Mường ở Thanh Sơn bên cạnh sở thích ăn thức ăn có vị chua như: củ kiệu muối, quả cà muối chua, rau cải muối dưa, rau sắn muối dưa cá; vị đắng như: măng đắng; lá, hoa, quả đu đủ; rau đốm… thì đồng bào còn ưa dùng một loại củ rất đặc biệt có vị chát, đó là củ nâu.
Loại củ này được người Mường ở đây khéo léo chế biến thành món nộm tạo nên nét đặc trưng riêng biệt, hương vị không thể lẫn với nét văn hóa ẩm thực của các dân tộc khác. Nộm củ nâu hay còn gọi nộm nâu là tên gọi một loại phụ gia tổng hợp với thành phần chính là bột củ nâu được người Mường sử dụng để chế biến gỏi cá.
Tuy nhiên nếu gỏi cá người Kinh ăn kèm nhiều loại rau, lá, củ, quả thì gỏi cá người Mường chỉ trộn củ nâu. Củ nâu có tác dụng khử mùi tanh vì thế hương vị gỏi khá đơn điệu, nhưng giữ được vị ngọt nguyên thủy của cá sống.
Điều đặc biệt là củ nâu không chỉ dùng để làm gỏi cá mà hầu hết các loại thịt người Mường thường dùng củ nâu để tạo nên các món ăn. Món thịt nộm nâu được xem như món ăn “lạ” và đặc trưng của đồng bào Mường trên mảnh đất này.
Từ bao đời nay, rau rừng đồ đã trở thành một món ăn quen thuộc trong bữa cơm hàng ngày của đồng bào dân tộc Mường ở Thanh Sơn. Do đặc điểm tập quán sinh sống, người Mường thích những vị chua chát, vị đắng, thích sử dụng phương thức đồ để chế biến rau nên món rau đồ được đồng bào khá ưa chuộng. Theo họ, rau đồ khác với các món ăn từ rau khác là sẽ giữ được hương vị của các loại rau. Món rau rừng đồ được tạo thành từ nhiều loại rau khác nhau, thông thường, đồng bào sẽ hái các loại rau quanh nhà như: rau lang, rau bí, rau dền cơm, rau ngải cứu, lá tía tô, lá lốt, cà rừng (loại cà quả nhỏ như cà pháo nhưng có gai), hoa chuối rừng, rau cải đồng… và không thể thiếu được trong món rau đồ đó là ngọn và lá đu đủ bánh tẻ cùng những chùm hoa đu đủ đực trắng tinh. Chúng được sử dụng để tạo ra vị đắng cho các món ăn.
Bánh tai còn gọi là bánh hòn, có hình dáng giống cái tai, được làm từ gạo tẻ, nhân thịt lợn, và một số nguyên liệu đặc biệt khác. Đa phần du khách khi tới Phú Thọ đều rất muốn ăn thử bánh tai bởi vị đặc biệt ăn nhiều cũng không ngán
Nếp Gà gáy Mỹ Lung nổi tiếng là thứ gạo đặc sản ngàn năm của người dân tộc Mường ở huyện Yên Lập (Phú Thọ) gắn liền với huyền thoại được nhiều người dân nơi đây truyền miệng từ đời này sang đời khác.
Nếp Gà Gáy không được gặt bằng liềm hay máy mà phải thu hoạch từng bông bằng tay cùng dụng cụ có tên là “túm”. Lúa được bó thành từng “cúm”, gánh về phơi. Khi những cúm lúa đã săn, người Mường không đem đi suốt mà cho vào bao hoặc treo lên gác bếp. Hạt thóc khi xát ra nhìn nửa trắng, nửa trong, tỏa hương thơm dễ chịu.
Lúa nếp Gà gáy khi trồng thân cây cao ngang đầu người, mùi hương thơm nên rất dễ bị sâu bệnh. Đặc biệt là nếu thời tiết xấu, mưa bão vào dịp lúa chín, cây đổ thì coi như mất mùa. Bởi vậy, năm 2005, nếp gà gáy đứng trước nguy cơ mất giống vì chỉ có duy nhất xã Mỹ Lung còn trồng với diện tích ít ỏi, khoảng 4 – 5 ha.
Không biết món cuốn cão ở làng Sỏi có từ bao giờ, ai là người đầu tiên sáng tạo nên món ăn đặc biệt ấy. Xưa kia người dân nơi đây gọi con tôm càng là con cão, cách gọi tên này ngày nay vẫn còn không ít người trong làng sử dụng. Món ăn là sự tổng hợp của nguyên liệu, nhiều màu sắc với màu đỏ của tôm, màu xanh của rau thơm, củ kiệu, màu trắng của thịt ba chỉ luộc và bún, giò lụa, màu vàng của trứng rán… Những con tôm được lựa chọn to chừng ngón tay út, đều nhau được rang lên phải đạt độ giòn và ngả màu hơi đỏ. Củ kiệu để cả lá, nhặt bỏ rễ và đem luộc chín. Trứng rán, thịt lợn ba chỉ luộc, giò lụa và bún, tất cả được thái thành miếng nhỏ dài để dễ xếp và dễ cuốn với kiệu. Để có một miếng cuốn cão ngon vừa miệng, người ta xếp các loại thực phẩm đã thái sẵn mỗi loại một miếng cùng một ít rau mùi sau đó dùng lá của củ kiệu cuốn lại.
Việc trồng sắn, vừa lấy củ, vừa tận dụng lá để nuôi tằm đã đem lại nguồn thu nhập lớn cho người dân ở xã Đồng Lương, huyện Cẩm Khê …Nuôi tằm ở xã Đồng Lương vừa bán được kén, vừa bán được nhộng để làm thức ăn.
Thịt chua sử dụng thịt lợn tươi sống ướp trong thính gạo cho thành phẩm chín tự nhiên. Đây vốn là đặc sản của người dân tộc Mường ở huyện Thanh Sơn, Phú Thọ. Món thịt chua có thể ăn kèm với lá ổi, đinh lăng, lá sung… là món nhậu rất được yêu thích
Rêu đá là món đặc sản độc đáo mà không phải ai cũng biết khi đến Phú Thọ. Rêu đá mọc ở nơi sông suối chảy xiết, là một loại rau sạch, ăn ngon nhất vào mùa xuân, có thể chế biến bằng nhiều cách như luộc, xào me, làm nộm, hoặc nướng..
Mắt sáng quắc, mào đỏ tươi, đuôi cong vút tựa cầu vồng và đặc biệt những cặp chân to, mọc nhiều cựa, giống gà quý theo truyền thuyết xưa dùng để tiến vua Hùng vẫn được người dân Phú Thọ nuôi thả giữa rừng núi.
Những chú gà nhiều cựa ở đây sống trong môi trường tự nhiên, đôi khi kết bạn gà rừng, có lẽ vì thế mà thịt gà nhiều cựa rất ngon và rắn chắc. Món gà đặc sản này khi người dân thiết đãi khách gà thường mang hấp lá chanh hoặc ướp mật ong rừng và một số loại lá cây gia vị tẩm ướp rồi nướng trong bếp than đỏ, khi thưởng thức mang lại cho chúng ta một hương vị thơm ngon tuyệt hảo đặc trưng của núi rừng.
Xuyên rừng Xuân Sơn ăn vịt nhồi lam và nhiều món ăn khác đơn sơ mà hấp dẫn của đồng bào. Ăn no rồi, ra hỏi kĩ, cô chủ nhà đon đả kể: đầu tiên là thịt vịt, lọc xương, thái mỏng, nhưng vịt phải chọn vịt nuôi bằng ngô, thóc và thả ngoài suối, ngoài ruộng mới thơm. Vịt thái xong đem trộn hoa chuối xắt mỏng và các loại gia vị khác trong đó đặc biệt có hạt dổi và lá dổi, loại lá hiếm có của vườn quốc gia Xuân Sơn. Tất cả đem bỏ vào ống giang, nút kín và đun trên lửa cho đến khi không còn thấy sôi và sủi bọt nữa thì bỏ ra ăn.
Ở Phú Thọ, chế biến cá thính chua được coi như một phương pháp bảo quản cá. Phương pháp này được sử dụng khá phổ biến ở đây – nơi có truyền thống và nhiều kinh nghiệm chế biến đặc sản cá thính chua.
Cá thính, còn gọi là cá muối chua, là sản phẩm được làm từ các loại cá nước ngọt còn tươi đem sơ chế, ướp thính để lên men chua, thơm, làm chín món ăn một cách tự nhiên. Cá thính thịnh hành như một trong những món ăn mặn dân dã, phổ thông,
Nguyên liệu và cách thức thực hiện không khó, nhưng để làm được hũ (chĩnh, lọ) cá thính ngon, thơm, chua dịu, miếng cá cứng nguyên dạng và “chín” đều lại khá khó khăn, phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm của người làm.
Măng rừng có ở nhiều nơi nhưng măng Sặt là giống măng rừng không phải vùng nào cũng có. Từ lâu rồi, măng Sặt mọc nhiều trên núi Buộm, dãy núi cao nhất ở Ấm Hạ. Loại măng này có đặc điểm thân nhỏ bằng đầu ngón tay cái, dong dỏng cao, lá nhỏ, sinh sản nhanh. Ở núi Buộm, măng Sặt mọc thành rừng và từng cụm dày. Sau tết nguyên đán, những cơn mưa xuân lất phất tạo cho đất rừng ẩm, tiết trời ấm, đây là thời điểm thuận lợi để Sặt mọc măng. Vì thế, từ tháng hai âm lịch đến hết tháng tư âm lịch là mùa măng Sặt mọc.
Cá nheo đồng dẫn đầu trong số những loài cá da trơn như trê đồng, trê phi, cá ngạnh, cá bò…Cá nheo sống ở hầu khắp các ao, vũng, đầm, hồ, thậm chí chúng có mặt cả ngoài sông Hồng. Ở mỗi môi trường nước khác nhau, nheo lại có màu sắc khác nhau. Khi thì đen tuyền, khi vàng ươm, vàng sẫm hoặc trắng đậm.
Cá nheo đồng được người dân miền trung du Hạ Hòa chế biến thành những món ăn đậm đà dư vị. Vì đây là loại cá da trơn nên khó lòng chế nheo thành món luộc, món hấp hay nấu canh.
Trám om cá Phú Thọ chẳng hề cầu kỳ về cách chế biến hay quá câu nệ về hình thức. Thế nhưng, nếu được một lần thưởng thức món ăn này do chính tay người dân nơi đây nấu, chắc rằng hương vị này sẽ khiến bạn vấn vương mãi không thôi.
Khi được nếm thử món ăn này, bạn sẽ chẳng còn thấy vị tanh của cá. Thay vào đó trám om kho cá vị béo ngậy, chua chua, chát chát nhưng nhai kỹ lại thấy vị bùi, thơm và ngọt. Hương vị độc đáo này khiến cho người ta cảm thấy thực sự ngon miệng và “đưa cơm” Món cá kho thú vị này rất thích hợp ăn vào những ngày ỏi ả. Khi người ta mệt mỏi với thời tiết oi bức thì một bát cơm trắng ăn cùng với món cá kho thực sự là rất tuyệt vời.
Xôi cọ với vị bùi ngậy của cọ, vị thơm dẻo của gạo nếp nương mang lại hương vị độc đáo, lạ miệng cho thực khách.
Không chỉ nổi tiếng bởi mảnh đất quê cha đất tổ, Phú Thọ còn đi vào lòng người bởi những món ăn thân quen qua câu ca dao truyền miệng. Cơm nắm lá cọ qua năm tháng đã trở thành món thương, món nhớ của người Phù Ninh.
Cơm nắm lá cọ vốn là món ăn dân dã nhưng vẫn cần đến những bàn tay khéo léo của người tạo nên. Cứ vào đúng mùa cọ, người ta lại lên đồi chặt những tàu lá cọ vẫn còn bánh tẻ về để nắm cơm. Những tàu lá cọ non còn chưa xòe hết, xanh mướt như uống trọn cái nắng ấm áp miền trung du.
Những chùm quả chín già, bóng, dai trĩu mời gọi. Người dân đi thu quả về, chọn những quả tròn, đầy, đều để làm cọ ỏm.
Người Phú Thọ có con mắt chọn quả tinh tường, chọn quả nào là quả đó ngon thơm, chứ du khách thập phương khó phân biệt được quả ngon, quả chưa ngon, quả nếp, quả tẻ.
Cọ được chọn đem xóc trộn để cạo bỏ lớp vỏ ngoài, rồi đem rửa sạch, luộc chín. Luộc cọ nghe thì đơn giản, nhưng không khéo thì cọ sẽ không ngon. Khi nước sôi liu riu, cho cọ vào, đậy vung đun nhỏ lửa, để nước sôi lăn tăn. Dầu cọ từ quả phôi ra, nổi váng trên mặt nước, bám vào thành nồi, khi ấy cọ đã chín. Nếu không đúng phần lửa, phần nước, quả cọ sẽ chát và cứng, khó ăn.
Bánh chưng được gói từ gạo nếp cái hoa vàng, dẻo thơm đậm đà hương vị; bánh nẳng được làm cầu kỳ từ gạo nếp với nước cốt các loại lá thơm, mầu đỏ đậm, có độ trong và dẻo, chấm với mật mía đem lại cho du khách cảm giác mát giọng, ngọt ngào; bánh gai dẻo mềm hương vị của lá gai, bùi béo của mứt sen trần, của lạc rang, của cùi dừa; bánh đúc giòn, đậm đà vị tương quê, thêm lạc rang bùi ngậy thơm nồng; bánh giày mịn màng, dẻo thơm, ngọt dịu…
Để làm ra những chiếc bánh thơm ngon, người dân làng Dòng luôn chú ý chọn gạo tốt để làm bánh, cùng với đậu xanh, lá thơm, mật mía, lạc rang…dưới bàn tay khéo léo của những người phụ nữ đảm đang làng Dòng, đã tỉ mỉ tạo nênnhững chiếc bánh đậm đà như vậy.
Ngày xưa, khi kinh tế khó khăn, có rất nhiều “giai thoại” về bánh sắn. Thời bố mẹ mình còn trẻ thì món bánh sắn “sang chảnh” nhất là bánh sắn nhân đũa (tức là bánh sắn chỉ lấy cái đũa nén xuống rồi viên lại hấp chứ chẳng có cái gì làm nhân cả).
Lúc mình nhỏ thì bánh sắn bắt đầu có nhiều loại hơn, nhưng ngon nhất cũng chỉ có nhân đỗ xanh, mỡ hành trộn với tóp mỡ. Chỉ thế thôi mà những chiếc bánh thơm lừng cũng đủ làm xao xuyến hết thảy bọn trẻ con rồi. Khi mình lớn hơn, kinh tế của hầu hết các gia đình đều khá hơn thì mới có các loại bánh sắn nhân thịt, nhân đậu đỏ,…
Tương là món chấm quen thuộc của vùng đồng bằng trung du Bắc Bộ. Giọt tương sóng sánh vàng, thơm đượm mùi nắng, mùi đỗ tương và gạo nếp đã theo bao lớp người lớn lên. Làng Dục Mỹ, xã Cao Xá, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ nổi tiếng với nghề làm tương cổ truyền từ lâu. Tương ở đây được ủ chín đủ ngày có màu vàng hơi đỏ, vị thanh, không gắt, ngọt đậm mà không mặn.
Đoan Hùng là một huyện của tỉnh Phú Thọ, thuộc trung du Bắc Bộ, trên ngã ba của hai con sông sông Lô và sông Chảy. Nói đến Đoan Hùng, người ta thường nghĩ đến những đồi cọ, những đồi chè… và đặc biệt là một loại trái cây đặc biệt: bưởi Đoan Hùng.
Đây phải là loại cây trồng lâu năm, có quả hình cầu dẹt, quả chưa đầy 1 kg, chín màu vàng sáng, vỏ hơi héo, cùi mỏng, múi ráo, tôm mọng nước, màu trắng ngà, đặc trưng bởi hương vị thơm, ngon, ngọt, mát. Giống bưởi đặc sản của Phú Thọ còn quý ở chỗ, có thể bảo quản được vài tháng đến nửa năm, khi bổ ra, ăn vẫn ngọt, ngon như thường!
Hồng Gia Thanh có nguồn gốc ở Tiên Cát, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, được dân di thực về trồng tại các vườn hộ gia đình thuộc xã Gia Thanh, huyện Phù Ninh ít nhất từ 50 – 70 năm trở lại đây, có những cây đã gần 70 tuổi. Hiện trên địa bàn huyện Phù Ninh đang có khoảng 50ha diện tích trồng Hồng mang lại thu nhập cho người dân.